Margins
Việt Nam danh tác book cover 1
Việt Nam danh tác book cover 2
Việt Nam danh tác book cover 3
Việt Nam danh tác
Series · 40
books · 1933-2017

Books in series

Tinh huyết book cover
#1

Tinh huyết

2015

Tinh huyết là tập thơ đầu tay của Bích Khê xuất bản năm 1939 và là tác phẩm duy nhất của tác giả được in lúc sinh thời. Đây là tập thơ với nhiều sáng tạo và cách tân độc đáo; nhiều tìm tòi trong nghệ thuật tạo hình, cấu trúc, ngôn từ; cảm xúc lạ, đẹp. Một số bài có ý thơ phóng túng và lời thơ táo bạo: “Nếu Nguyễn Bính là một miền đồng bằng thân thuộc thì Bích Khê là một đỉnh núi lạ. Có những nhà thơ làm thơ. Có những nhà thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca duy tân thêm một bước. Có những nhà thơ đem đến một mùa lương thực. Lại có những nhà thơ cầm một dúm hạt giống mới trên tay. Khê thuộc vào hạng thứ hai” (Chế Lan Viên). "Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi Đâu tìm Đào nguyên cho xa xôi Đào nguyên trong lòng nàng đây thôi"
Điêu tàn book cover
#3

Điêu tàn

1937

Nhận định "Và ngày nay, đọc Điêu tàn, chúng ta cảm ơn rất nhiều nhà thơ Chế Lan Viên, nhưng ở một bình diện khác, tôi còn muốn cảm ơn thế giới nghệ thuật còn lại của Chăm-pa: Chính thế giới này không chỉ là chất liệu cho cảm hứng thi ca một thời mà nó còn là toàn bộ thần thái buồn bã ảo nảo và đau đớn cùng cực của Điêu tàn của Chế Lan Viên nói riêng và của trường thơ Loạn Bình Định nói chung. Chính nó đã làm nên khí chất, sắc thơ và tình điệu thẩm mỹ cho trường phái thơ nổi tiếng này, và cũng từ đấy ghi lại một dấu son khó phai trong lịch sử thi ca Việt Nam hiện đại." (Lê Quang Đức) Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng Với của hoa tươi muôn rã cánh Về đây đem chắn nèo xuân sang
Mê hồn ca book cover
#4

Mê hồn ca

1954

"Ta gần em, mê từ ngón bàn chân, Mắt nhắm lại, để lòng nguôi gió bão. Khi sùng bái, ta quỳ nâng nếp áo, Nhưng cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm Ta khẩn cầu từng sớm lại từng đêm, Chưa tội lỗi đã thấy tràn hối hận. Em đài các, lòng cũng thoa son phấn, Hai bàn chân kiêu ngạo giẫm lên thơ."
Thơ book cover
#5

Thơ

1942

Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thì Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cần phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa. Tôi vẫn còn đây hay ở đâu Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu Sao bông phượng nở trong màu huyết Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?
Quê ngoại book cover
#8

Quê ngoại

1942

Anh Phải Sống book cover
#9

Anh Phải Sống

1934

Đôi ta sẽ cùng nhau dan díu trên làn sóng biếc dịu dàng. Mặt nước, vì đôi ta, in bóng rung rinh các ngôi sao vàng. Vừng trăng, vì đôi ta, chiếu ánh bạc lên cánh buồm. Và trong bầu không khí thần tiên, Điệu hát du dương của buổi chiều tà yên lặng, Thì thầm khuyên chúng ta yêu nhau."
Gánh hàng hoa book cover
#10

Gánh hàng hoa

1934

Tác phẩm miêu tả cuộc sống của tầng lớp trí thức nghèo tại Hà Nội trong những năm 30 của thế kỷ 19. Chàng thư sinh tên Minh có vợ là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, người làng Ngọc Hà, làm nghề trồng hoa và bán hoa. Cuộc sống vợ chồng tuy vất vả nhưng vui vẻ và hạnh phúc. Vợ Minh, Liên, là bạn của anh từ thuở nhỏ, vô cùng yêu chồng, hết lòng kiếm tiền nuôi chồng ăn học để mong chồng đỗ đạt. Nhưng rồi Minh vì tính đa nghi ghen tuông lại nghĩ sai về tình cảm tốt đẹp của người bạn học với mình, anh Văn và Liên. Từ sau cuộc nhậu ở nhà Văn, Minh ngã bị thương vào mắt và tạm thời không thấy ánh sáng trong một khoảng thời gian, anh sinh ra tiêu cực, chán nản, càng đa nghi. Tuy vậy, chính Minh sau khi khỏi mắt cũng bị sắc đẹp của người con gái khác làm cho xao lòng, bỏ nhà ra đi...
Hồn Bướm Mơ Tiên book cover
#11

Hồn Bướm Mơ Tiên

1933

Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng viết năm 1933, và cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Mặc dù chỉ là truyện ngắn vỏn vẹn chừng một trăm trang giấy, nhưng nó lại là tác phẩm nổi tiếng nhất của Khái Hưng, được nhiều người say mê, hâm mộ, cũng được coi là tác phẩm thành công nhất của ông. Một truyện tình lãng mạn tuyệt vời, bay bướm y như các truyện ngắn của Ivan Tourgueniev, giá trị nghệ thuật rất cao, tâm lý nhân vật sâu sắc thể hiện sự tranh đấu giằng co giữa tình yêu và lòng mộ đạo ở nội tâm một người đệ tử xuất gia, nó cũng là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nền văn học cận đại và hiện đại nước nhà.
Tiêu Sơn tráng sĩ book cover
#12

Tiêu Sơn tráng sĩ

1940

“TÊN LÍNH ĐỨNG THỞ một hồi nữa rồi mới thuật lại rằng một võ sĩ trông rất mạnh mẽ, dữ tợn, phi ngựa qua cổng phủ và ném xuống đó một cái xác người chết. Phân phủ và phân suất vội vàng theo linh ra cổng Một người trần truồng nằm sấp ở giữa đường, ngay bên cấu treo. Phân suất củi xuống lật ngửa cái thấy lên thì thấy một con dao sáng loáng cắm trúng chỗ trái tim. Thốt nhiên phân phủ thét lớn: \- Trời ơi! Nguyễn Kha! Nguyễn Kha bị giết rồi! "
Truyện đường rừng book cover
#13

Truyện đường rừng

1940

Lan Khai nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”. Ông để lại cho di sản văn học nước nhà hàng trăm tác phẩm, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết. "Ông Chánh, bố đẻ cô Nhinh, gọi con ra một chỗ vắng, đưa cho hai quả trứng và bảo rằng: "Nếu con muốn chồng con trở lên đây, thì con hãy luộc đôi trứng này cho nó ăn." Cô rụt rè kinh hãi. Đối với chồng, cô không muốn dùng những cách ám muội."
Lều chõng book cover
#16

Lều chõng

1941

Lều Chõng không chỉ là chuyện văn chương, chữ nghĩa. Lều chõng còn gắn bó mật thiết đến vận mệnh đại sự của quốc gia, đến sự tồn vong, hưng thịnh của đất nước. Lều Chõng là tiểu thuyết phóng sự chất tiểu thuyết của Lều Chõng thể hiện từ cốt truyện với hệ thống các nhân vật có tâm lý, tính cách cụ thể, được xây dựng thành những hình tượng và các chân dung điển hình. Chất phóng sự trong Lều Chõng biểu hiện bằng nghệ thuật xử lý tinh tế, có tính thời sự cao, phản ánh chân thành, cụ thể các sự việc có thực diễn ra phong phú trong hệ thống thi cử thời xưa. Đề cập đến chủ đề rất lớn thuộc quá khứ, Lều Chõng có công làm cho nước ta thành một nước có văn hóa, rồi chính nó đã đưa đất nước đến cõi diệt vong. Lều Chõng đã triển khai sâu rộng việc chẩn trị trọng bệnh quốc gia là nạn cử nghiệp đã hành hạ và tàn phá cơ thể xã hội trong thời gian rất dài.
Việc làng book cover
#18

Việc làng

1941

“Rồi hắn nhấc cả con gà ra thớt. Bắt đầu chặt lấy cái sỏ, sau mới chặt đến miếng phao câu. Thình lình thấy hắn đứng lên ngoảnh mặt vào phía mấy ông đàn anh: \- Thưa trình các cụ, hôm nay sỏ gà pha mấy? phao gà pha mấy? Một ông trong bọn nhìn qua vào đám nhiều tuổi, hình như để đếm đầu người, rồi đáp: \- Ở đây chỉ có năm cụ và bốn ông đàn anh. Vậy thì sỏ gà pha năm, phao gà pha bốn.”
Bỉ Vỏ book cover
#19

Bỉ Vỏ

1938

"Năm ấy tôi mười sáu tuổi, hết hạn tù, được tha. Mẹ tôi lên tận nhà giam tôi, đón tôi. Nhưng chúng tôi không về Nam Định - quê hương của chúng tôi - mà dắt nhau ra Hải Phòng. Khi tôi đi tù, đoạn tang cha tôi, mẹ tôi bước đi một bước nữa. Nên lúc rời bỏ cái tỉnh đã chứng kiến bao nhiêu việc không hay kế tiếp phá tan gia đình tôi, sự ngậm ngùi của mẹ tôi nghĩ đến lòng héo hắt của một người đàn bà đã cải giá trước sự khinh bỉ rẻ rúng của họ hàng nhà chồng và trước sự ghê tỏm của mọi người quen đối với con mình, mới một dúm tuổi mà đã trải hết lao này đến lao khác. Hôm đó, trời thu trong và sáng. Con tàu chở chúng tôi lướt trên một dòng sông lặng lẽ giữa những đồng ruộng xanh bát ngát. Ra Hải Phòng, chúng tôi càng khổ sở. Trông vào vài hào làm vốn buôn trầu cau, mẹ con tôi được bữa sớm mất bữa tối. Lắm phen, luôn mấy hôm, chỉ một bữa cháo lót lòng. Bao nhiêu ngày tháng, bị câu thúc thân thế và phải làm những việc bẩn thỉu, nặng nhọc quá sức mình, tôi tưởng khi thoát khỏi cảnh tù tội đày ải ấy sẽ sống no ấm... ngờ đâu! Vì thế xác thịt tôi dần suy nhược, cái ngực thỉnh thoảng đau nhói lên, tôi cảm thấy đời tôi đã bị rút ngắn đi và một ngày rất gần kia sẽ hết. Chết! Mỗi lần cái chữ đen tối khủng bố ấy hiện ra, tôi thấy sao mà chung quanh tôi sự vật gì cũng sáng sủa, tươi đẹp! Hết thảy đều kêu gọi lòng ham sống của tôi. Tôi chết đi, mới mười sáu tuổi đầu, sẽ làm cho mẹ tôi đau đớn biết chừng nào. Và cái phút cuối cùng của một đời sớm tắt ấy, tôi sẽ quằn quại như con bướm non bị hai ngón tay dữ tợn kẹp chặt vừa lúc nó mới đánh thấy mùi nhị hoa thơm ngát
Những Ngày Thơ Ấu book cover
#20

Những Ngày Thơ Ấu

1940

“NHỮNG NGÀY THƠ ẤU” có thể coi là một tác phẩm xuất sắc. Đây là tập hồi ký về tuổi thơ ghi lại những “Rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”. Cuốn sách bao gồm những phần chính sau: I: Tiếng kèn II: Chúa thương xót chúng con III: Truỵ lạc IV: Trong lòng mẹ V: Đêm noel VI: Trong đêm đông VII: Đồng xu cái VIII: Sa ngã IX: Một bước ngắn
Lỡ bước sang ngang book cover
#21

Lỡ bước sang ngang

1940

" Em là con gái trong khung cửi, Dệt lụa quanh năm với mẹ già. Lòng trẻ còn như cây lụa trắng, Mẹ già chưa bán chợ làng xa. Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay, Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy. Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ, Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay."
Mười hai bến nước book cover
#22

Mười hai bến nước

2016

Thơ Nguyễn Bính đi vào lòng ngưười bởi cái hồn mộc mạc mang hương đồng gió nội. Với Nguyễn Bính, chân quê chính là cái gốc, là bản sắc văn hoá dân tộc, là nét đẹp nhân bản của con người Việt Nam. Những bức tranh quê chân thực, mộc mạc được tái hiện trong ông một cách tự nhiên, dung dị. "Nǎm ấy sang sông lỡ chuyến đò, Đò đầy gió lớn sóng sông to. Mười hai bến nước xa lǎng lắc, Lầm tự ngày xưa, lỡ đến giờ. Tôi biết tình tôi đã lỡ rồi Tình ta đành chỉ thế này thôi Thương tôi, mình hiểu cho tôi nhé Mà chỉ riêng mình mới hiểu tôi."
Tâm hồn tôi book cover
#23

Tâm hồn tôi

2016

Việt Nam Danh Tác - Tâm Hồn Tôi Cái tình trong thơ Nguyễn Bính luôn luôn mặn mà, mộc mạc, sâu sắc và tế nhị hợp với phong cách, tâm hồn của người Á Đông. Vì vậy thơ Nguyễn Bính sớm đi sâu vào tâm hồn của nhiều lớp người và đã chiếm lĩnh được cảm tình của đông đảo bạn đọc từ thành thị đến nông thôn. Đặc biệt là lớp người bình dân, họ thuộc lòng, ngâm nga nhiều nhất. Vì ngoài phần ngôn ngữ bình dân dễ hiểu, dễ thuộc còn một vấn đề khác khiến thơ ông trường tồn chính là tiếng nói trong thơ ông cũng là tiếng nói của hồn Việt lắng sâu. "Hôm qua, em đi tỉnh về Đợi em ở mãi con đê đầu làng Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng Áo cài khuy bấm. Em làm khổ tôi Thị thành bôi nhọ em rồi Nào đâu cái yếm mua hồi sang xuân?"
Kép Tư Bền book cover
#24

Kép Tư Bền

1935

Nguyễn Công Hoan là một trong những người đặt viên gạch đầu tiên xây nền móng cho dòng văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam. Đó là thời kỳ văn học Việt Nam đương ở buổi sơ khai của nền văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ. Ông đã chọn và dám táo bạo mở đường…, viết những truyện trong đời sống bình thường, về những con người cùng khổ bị bọn cường hào, địa chủ, tham quan ô lại đè nén, bóc lột đến cùng cực…, Bằng con mắt nhìn đả kích, diễu cợt sâu cay, xuất phát từ lòng căm giận kẻ cường quyền, và tình yêu thương những người cùng khổ đến rơi nước mắt. Văn ông giản dị, dễ hiểu, câu chữ chọn lọc rất tinh tế và sắc sảo (theo Nhà văn Việt Nam hiện đại)
Ngoại ô book cover
#25

Ngoại ô

2017

Ngoại ô ra mắt người đọc vào những năm cuối của trào lưu văn học hiện thực phê phán - giai đoạn 1940 - 1945, "khi mà không khí văn đàn không còn được sôi nổi, nhộn nhịp như thời kì trước (1936 - 1939) nên ít được phê bình, giới thiệu... làm cho tác phẩm bị giảm tiếng vang". Nguyễn Đình Lạp xuất hiện khi trên văn đàn đã có những cây đa, cây đề của lĩnh vực tiểu thuyết như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao,... Trong tâm thế của một người đến muộn, Nguyễn Đình Lạp đã xác định cho mình một lối đi riêng: đi vào khai thác một đề tài tương đối mới mẻ - cuộc sống dân nghèo thành thị trước cách mạng.
Ngày xưa book cover
#26

Ngày xưa

2015

Nguyễn Nhược Pháp sinh tại Hà Nội, ông là con của nhà văn, nhà báo, dịch giả, học giả Nguyễn Văn Vĩnh, quê quán: xã Phượng Dục, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Ông học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú tài. Ông làm thơ từ sớm và đã từng viết cho các báo Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh hoa, Đông Dương Tạp chí. Ông mất năm 24 tuổi tại Hà Nội do bệnh thương hàn. Hoài Thanh và Hoài Chân nhận xét về thơ ông như sau: “Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp…. Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng.” "Làn gió thổi hây hây, Em nghe tà áo bay, Em tìm hơi chàng thở! Chàng ôi, chàng có hay?"
Chiếc lư đồng mắt cua book cover
#27

Chiếc lư đồng mắt cua

1941

"NHƯNG LÚC NÀY TÂM NGÀ NGÀ SAY RƯỢU, tỏ ý say thêm đối với nghề nghiệp, khổ phách gõ xinh hơn mọi lần, tiếng phách ròn vui như tiếng chim buổi sớm mai trong bụi cây. Trái với tiếng phách vui, giọng hát Tâm đượm mùi sầu xứ, mỗi hơi chuyển từ làn này sang làn khác là một giọng cảm động đầy tha hương thương nhớ...Tâm nhìn làn khói mà hát, mắt long lanh tiếng hát có tinh thần và nhiều chữ mở, nhiều hơi mớm rất thần tình. Một giọng hát đẹp này vẳng lên vào một trường hợp cảm động lúc năm đã hồ tàn hình như đủ gột hết khỏi người Tâm tất cả những bẩn thỉu chát vào kể tư lúc dấn thân và nghề."
Chùa Đàn book cover
#28

Chùa Đàn

1946

Chùa Đàn là truyện ma quỉ của Nguyễn Tuân viết vào năm 1945 đã được một số nhà phê bình coi như tác phẩm đặc sắc nhất của ông, có thể nói đã đạt tới tột đỉnh của nghệ thuật. Trước năm 1975 ở Sài Gòn người ta có in lại. Sau cách mạng viết thêm một phần mở đầu gọi là Dựng và một phần kết gọi là Mưỡu Cuối, do Quốc Văn xuất bản tại Hà Nội 1946, năm 1947 Chùa Đàn được nhà xuất bản Tân Việt in lại tại Sài Gòn. Sau khi Nguyễn Tuân viết thêm, Chùa Đàn 1945 đã trở thành phần thứ hai và được gọi là Tâm Sự Của Nước Độc.
Ngọn đèn dầu lạc book cover
#29

Ngọn đèn dầu lạc

1999

Ngọn đèn dầu lạc là tập phóng sự về việc hút thuốc phiện ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Hút thuốc phiện dưới con mắt của Nguyễn Tuân vừa độc hại như một thứ gây nghiện, tàn phá sức khỏe của kẻ hút và làm khốn đốn gia đình, xã hội. Nhưng đồng thời hút thuộc phiện cũng được Nguyễn Tuân mô tả như một thú chơi của giới nghệ sĩ, trí thức, đem đến những cảm xúc thăng hoa trong sáng tạo và công việc.
Tàn đèn dầu lạc book cover
#30

Tàn đèn dầu lạc

1941

Tàn đèn dầu lạc được xem là tập tiếp theo của cuốn Ngọn đèn dầu lạc. Tiếp tục đề tài hút thuốc phiện, Nguyễn Tuân kể lại những câu chuyện xung quanh chiếc bàn đèn thuốc phiện, trong đó tập trung vào những thói tính xấu xí, bệ rạc, hư hỏng của kẻ nghiện thuốc.
Bướm trắng book cover
#32

Bướm trắng

1939

"TRƯƠNG THẤY TRONG NGƯỜI MỎI MỆT, nhưng có cái mỏi mệt nhẹ nhõm dễ chịu của một người vừa hết sốt. Ngoài đường cái có tiếng lăn lạch tạch của một chiếc xe bò đi qua. Trương đoán là một xe rau ở ngoại ô lên chợ sớm. Lòng chàng lắng xuống và từ thời quá vãng xa xăm nổi lên một hình ảnh yêu quý của tuổi thơ trong sáng: khu vườn rau của mẹ chàng với những luống rau diếp xanh thắm, những luống thìa là lá nhỏ như sương mù và hôm nào trời nắng, những mầm đậu hòa lan tươi non nhú lên qua làn rơm ủ dột. Rồi đến khi luống đậu nở hoa trắng, có những con bướm rất xinh ở đâu bay về..." NHẤT LINH (1906-1963) tên thật là Nguyễn Tường Tam, là nhà văn nổi tiếng đồng thời cũng là một chính khách có tên tuổi của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người thành lập Tự Lực văn đoàn và cùng với Khái Hưng là hai cây bút chính của nhóm. Ông còn là chủ bút các tờ Phong hóa, Ngày nay. Về chính trị, ông đã tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng và từng giữ chức bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Ông đã tự sát vào năm 1963 tại Sài Gòn. Một số tác phẩm tiêu biểu của Nhất Linh: Đoạn tuyệt (1936) Đôi bạn (1939) Lạnh lùng (1940) Bướm trắng (1941)
Lạnh Lùng book cover
#34

Lạnh Lùng

1935

Lẽ phải dạy ta rằng một người đàn bà góa có thể vì tình yêu ở vậy suốt đời, không một ngày quên người đã mất. Trái lại, không yêu chồng mà lúc chồng qua đời, còn thủ tiết cho đến khi nhắm mắt, chỉ là hi sinh vô nghĩa cho một tục lệ trái với thiên đạo. Tục lệ ấy là một tục lệ được người xưa hoan nghênh, kính trọng. Theo nền luân lý thường ngàn năm để lại, đã là đàn bà thì chỉ có thể lấy một chồng. Tình yêu không có nghĩa lý gì. Ngay từ hôm cưới, người vợ đã thành ra thuộc quyền sở hữu của ngườì chồng, của gia đình chồng, và nếu chồng khuất núi, bổn phận của vợ là phải thủ tiết hết đời, dẫu đối với chồng, không có mẩy may thương nhớ. Cô Nhung trong truyện "Lạnh lùng" chính ở trong cái cảnh huống ngang trái ấy. Chung quanh cô, là mẹ đẻ cho đến mẹ chồng, ai nấy đều có cho bổn phận tự nhiên của cô - một người đàn bà góa đương xuân - là chịu sự lạnh lùng của một đời lẻ loi đề giử tiếng thơm cho hai họ. Nhưng ở trong một xã hội nệ cổ thế, với một tâm hồn yếu ớt, không đủ chí như cương quyết để chống với hoàn cảnh lẽ tự nhiên là bi khuân theo hoàn cảnh. Bỗng tình yêu đến. Nhưng bỗng cảm thấy sự trống trải của một đời quá phụ : Nhung bỗng nhận ra rằng cả đời cô không phải là để hi sinh cho một tiếng thơm hão. Cả tâm hồn cô lúc ấy chỉ là hi vọng, hi vọng sống mội đời đầm ấm tình yêu. Trát lại, hoàn cảnh cố giam cầm Nhung trong cỏi đời lạnh lẽo cô độc. Tục lệ, thành kiến của những người chung quanh đều bắt buộc Nhung dập tắt ngọn lửa ái tình đã nhóm trong lòng cô - ái tình mà người ta coi là đốn mạt - và nếu Nhung không dập được tắt, lại cố bắt buộc cô giấu diếm để giữ lấy tiếng thơm, lấy thể diện cho nhà mình, cho nhà chồng. Nhung không đủ can đảm và vì quá thương mẹ, đã tự dấn thân vào một đời sảo quyệt, gian trá, giả đạo đức. Nhưng lỗi ấy không phải tội Nhung. Lỗi cũng không phải tội bà Án. Mà cũng không tại ai cả. Lỗi là lỗi của nền luân lý chật hẹp muốn khuôn hết tính tình của người ta vào những mẫu nhất định, bất di dịch, một nền luân lý đã coi rẽ hạnh phúc "con người". HOÀNG-ĐẠO
Tôi kéo xe book cover
#35

Tôi kéo xe

2014

“Kéo ông già thì phải ếp cho nhiều, chạy cho chậm; kéo ông Tây, phải chạy cho khỏe, tối, có chậm thắp đèn cũng đừng sợ; kéo tiểu thư công tử thì phải chạy cho nghênh ngang…; nghĩa là cứ tùy mặt khách mà làm: gặp người nhiều chuyện thì phải vừa chạy vừa tán; gặp kẻ nó khinh mình phu xe phu pháo thì phải câm mồm; thằng ngồi cho mình kéo không đáng mặt quan, mình cũng cứ tôn nó lên quan; con đàn bà mình biết mười mươi là gái thập thành, nó đã diện quần áo bảnh lên xe mình thì mình cũng cứ tôn nó là bà lớn!”
Ai hát giữa rừng khuya book cover
#36

Ai hát giữa rừng khuya

1942

"Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phải bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó có lòng hiện lên được, vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẫn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành. Chả bù với thời thái bình êm ái thuở xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thuở đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Ðến thời nay, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời. Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy tận mắt ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Ðó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này..." "Em nó còn nhỏ dại, ông tha cho nó! Vả nó xấu xí, hát còn kém cỏi lắm, dở hơn tôi nhiều, ông bắt nó làm gì. Nó còn thơ, da thịt hôi tanh, lại là đàn bà, bẩn thỉu, ông xơi mà làm chi? Ông tha cho nó."
Gió đầu mùa book cover
#37

Gió đầu mùa

1937

“… qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung chăn tỉnh dậy, nhưng không bước xuống giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay vào trong bọc, bên cạnh đứa em bé vẫn nắm tay ngủ kỹ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy, đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Sơn nhận thấy mọi người đã mặc áo rét cả rồi.”
Nắng trong vườn book cover
#39

Nắng trong vườn

1938

"Khi tôi quay lại nhìn chồng nàng, tôi thấy rõ cái lãnh đạm của người đàn ông ấy... Nàng có sung sướng không? Nàng có còn nhớ đến tôi không? Ngậm ngùi, tôi nghĩ đến cuộc ái ân ngắn ngủi...trong mấy tháng hè: cái tình yêu biết đâu chẳng vẫn còn để lại trong lòng nàng một vẻ rực rỡ như ánh nắng trong vườn."
Ngày mới book cover
#40

Ngày mới

1939

“THI ĐỖ, RỒI ĐI LÀM CÔNG SỞ, đó là mục đích của cả một đời. Nhưng bây giờ Trường mới rõ cái nhỏ mọn của điều mong ước ấy. Sự sống đã cho chàng bao nhiêu bài học hay. Trường không băn khoăn vì cảnh nghèo của mình nữa. Chàng không ganh ghét với những người sang trọng, giàu có hơn chàng, - Trường nghĩ đến Quang, đến người bạn học cũ ở nhà quê, - và tự thấy mình giàu hơn họ nhiều, giàu hơn họ nhiều, giàu những tính tình tốt đẹp, những ý nghĩ đằm thắm mà những người chỉ biết đến mình không bao giờ có được.” THẠCH LAM (1910-1942) Khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi lại là Nguyễn Tường Lân, thuở nhỏ chủ yếu sống ở quê ngoại tại Cẩm Giàng, Hải Dương, nguyên quán ở làng Cẩm Phô, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Ông là nhà văn nổi tiếng thuộc nhóm Tự Lực văn đoàn và cũng là em ruột của hai nhà văn khác trong nhóm: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long).
Sợi tóc book cover
#41

Sợi tóc

1974

Tập truyện ngắn Sợi tóc của Thạch Lam xuất bản lần đầu năm 1942, NXB Đời Nay. Gồm năm truyện ngắn: “Dưới bóng hoàng lan”, “Tối ba mươi”, “Cô hàng xén”, “Tình xưa”, “Sợi tóc”. Các truyện ngắn của Thạch Lam tuy nhẹ nhàng và giàu tính trữ tình, nhưng chứa đựng những trăn trở sâu sắc về con người, thời thế. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận xét: “… những truyện ‘Tối ba mươi’, ‘Cô hàng xén’, ‘Tình xưa’, ‘Sợi tóc’, đều là những truyện vào hạng những đoản thiên tiểu thuyết đáng kể là hay nhất trong văn chương Việt Nam.” Ấn bản này của Nhã Nam được thực hiện theo bản in Sợi tóc của NXB Đời Nay in xong ngày 30/1/1942, chỉ sửa một số cách viết cho phù hợp với quy tắc chính tả hiện nay như “trôi chảy” thay cho “chôi chảy”, “giương mắt” thay cho “dương mắt”… Các ảnh minh họa trong sách được lấy từ các truyện ngắn của Thạch Lam đăng trên báo Ngày Nay (1938-1940).
Lê Phong book cover
#42

Lê Phong

1937

“Phen này tôi đánh một ván cờ rất lạ với quân giết người mà tôi biết rất là tài tình. Tôi phải thắng, mà thắng một cách… rực rỡ \[...\] Nếu không thì tôi không đáng là một phóng viên nữa.”
Trại Bồ Tùng Linh book cover
#43

Trại Bồ Tùng Linh

1941

"Trại Bồ Tùng Linh" là một trong những tác phẩm của Thế Lữ được viết theo phong cách huyền bí, huyền tưởng và trinh thám. Đặc biệt tác phẩm này chịu ảnh hưởng bởi phong cách của Bồ Tùng Linh với Liêu trai chí dị
Hà Nội lầm than book cover
#45

Hà Nội lầm than

2015

"NGƯỜI TA CÓ KHI KHOE RẰNG ĐÃ ĐI HÁT CÔ ĐẦU, và biết nhảy đầm. Nhưng, tôi quyết rằng không ai dám nhận đã có đi vào... "nhà thổ", dù chỉ có một lần nhỏ thôi, trong đời mình... Tôi đã đàng hoàng bước vào nhà thổ..."
Bóng ma nhà mệ Hoát book cover
#46

Bóng ma nhà mệ Hoát

1973

Miếng Ngon Hà Nội book cover
#48

Miếng Ngon Hà Nội

1960

"Vào khoảng năm tàn tháng hết, ở miền Nam nước Việt có những buổi tối đìu hiu lạnh như mùa thu đất Bắc. Gió buồn đuổi lá rụng trên hè. Mây bạc nặng nề trôi đi chầm chậm như chia mối buồn của khách thiên lý tương tư. Người xa nhà đột nhiên thấy trống trải trong lòng. Lê bước chân trên những nẻo đường xa lạ, y thấy tiếc nhớ một cái gì không mất hẳn, nhưng không còn thấy. Nhớ vẩn vơ, buồn nhẹ nhẹ. Cái buồn không se sắt, cái nhớ không day dứt, nhưng chính cái buồn và cái nhớ đó mới thực làm cho người ta nhọc mệt, thẫn thờ. Lòng người cũng như cánh hoa, chóng già đi vì thế. Người ta không nặng lắm về hiện tại, nhưng thiết tha với quá khứ hơn"
Phù Dung ơi, vĩnh biệt! book cover
#50

Phù Dung ơi, vĩnh biệt!

2009

“Kiếp sống rõ não nùng. Tôi không sợ gì cả, nhưng sợ chết và sợ không được hút đúng giờ đúng giấc. ‘Nếu nghiện, ta đâm đầu xuống sông!’ Câu quyết định ngày nào vẫn còn lẩn vẩn trong trí nhớ, nhưng tôi tự thấy không còn sức để làm theo nữa... Đến bây giờ tôi mới biết rằng, thuốc phiện làm cho người ta muốn sống không được mà muốn chết cũng không được nữa.”
Thương Nhớ Mười Hai book cover
#51

Thương Nhớ Mười Hai

1971

"Nhớ lại có những đêm tháng mười ở Hà Nội, vợ chồng còn sống cạnh nhau, cứ vào khoảng này thì mặc áo ấm dắt nhau đi trên đường khuya tìm cao lâu quen ăn với nhau một bát tam xà đại hội có lá chanh và miến rán giòn tan, người chồng lạc phách đêm nay nhớ vợ cũng đóng cửa lại và đi tìm một nhà hàng nào bán thịt rắn để nhấm nháp một mình và tưởng tượng như hãy còn ngồi ăn với người vợ thương yêu ngày trước, nhưng sao đi tìm mãi, đi tìm hoài không thấy \[...\] Người chồng dừng lại, sợ chính bóng mình. Nước mắt anh lại ứa ra, và chảy dài theo lối đi lấp loáng một bông sao rụng."
Giông tố book cover
#52

Giông tố

1936

Giông tố là thảm kịch về sự thấp hèn bất tín của con người trên mọi lãnh vực: không ai có thể tin được ai, không ai có thể nhờ cậy được ai. Từ trong ra ngoài, từ anh em đến cha mẹ, từ vợ đến chồng, cha đến con, tất cả đều sống trong lừa dối, bất mục, một vòng loạn luân khép kín : tội ác và lừa bịp gieo rắc khắp nơi, không thể biết hậu quả chỗ nào mà tránh. Giông tố không phải là quyển tiểu thuyết như Tắt đèn của Ngô Tất Tố, hay Đoạn tuyệt của Nhất Linh. Có nghiã là nó không chỉ tố cáo sự thối nát trong chế độ làng xã thôn quê, sự bóc lột người cùng đinh của bọn giàu có, quan lại, ở nông thôn, của một thời Pháp thuộc, như Ngô Tất Tố. Nó lại càng không đả phá chế độ gia đình trị trong xã hội cổ truyền đầu thế kỷ XX, như Nhất Linh. Vũ Trọng Phụng trình bày con người của mọi thời dưới khía cạnh thực nhất: Đó sự thay lòng đổi dạ của con người trong một môi trường xã hội mà tiền bạc có thể chi phối tất cả. Vũ Trọng Phụng viết về sự tha hoá của con người trong khi các tác giả khác mới chỉ đề ra những nạn nhân của chế độ, như Loan trong Đoạn tuyệt, nạn nhân của chế độ mẹ chồng nàng dâu ; Dậu trong Tắt đèn, nạn nhân của sưu cao thuế thuế nặng, của quan lại dâm ô ; Bính trong Bỉ vỏ, nạn nhân sự phản bội của người tình, sự tàn ác của cha mẹ, sự đoạ đầy của xã hội, v.v... Nhân vật của Vũ Trọng Phụng khác hẳn: trong Giông Tố, chúng ta không tìm ra được khuôn mặt nào đáng thương quá đáng, cũng không tìm thấy khuôn mặt nào đáng ghét quá đáng, kể cả Nghị Hách và Thị Mịch, là hai đối trọng, kẻ hiếp dâm và kẻ bị hiếp. Trong Giông tố, (cũng như trong Vỡ đê và Số đỏ), không hề có sự chia đôi giữa nạn nhân và thủ phạm, vì thế mà những người phê bình như Trương Chính, quá quen với lối phân chia tốt xấu, không thể hiểu được sự phức tạp của con người Thị Mịch.

Authors

Chế Lan Viên
Chế Lan Viên
Author · 1 books

Chế Lan Viên (1920-1989) là một nhà thơ, nhà văn hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam. Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương[1]. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội. Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 68 tuổi. Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996). Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.

Nhat Linh
Nhat Linh
Author · 5 books

Nguyễn Tường Tam (1906 - 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng du, Tân Việt, Đông Sơn (khi vẽ); và cũng là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người thành lập Tự Lực văn đoàn và là cây bút chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Về sau, ông còn là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.

Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan
Author · 3 books

Tiểu sử Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (thời ấy thuộc tỉnh Bắc Ninh). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Nguyễn Công Bồng và Nguyễn Công Mỹ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. ]Tác phẩm Ông để lại một di sản nghệ thuật với hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học, các tác phẩm chính của ông là: Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923) Răng con chó của nhà tư sản (truyện ngắn, 1929; đăng Annam tạp chí số 23 năm 1931 với nhan đề Răng con vật nhà tư bản) Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1930) Thật là phúc (truyện ngắn, 1931) Người ngựa, ngựa người (truyện ngắn, 1931) Thế là mợ nó đi tây (truyện ngắn, 1932) Xin chữ cụ nghè (truyện ngắn, 1932) Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933) Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934) Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935) Cô làm công (tiểu thuyết, 1936) Oẳn tà roằn (truyện ngắn, 1937) Vợ (truyện ngắn, 1937) Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938) Tinh thần thể dục (truyện ngắn, 1939) Phành phạch (truyện ngắn, 1939) Cái thủ lợn (tiểu thuyết, 1939) Nông dân và địa chủ (truyện ngắn, 1955) Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956) Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960) Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961) Đống rác cũ (tiểu thuyết, 1963) Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971) Tuyển tập Nguyễn

Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử
Author · 1 books

Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9 năm 1912 – mất 11 tháng 11 năm 1940) là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn Các sáng tác của Hàn Mặc Tử, gồm có: Lệ Thanh thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật) Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời) Thơ Điên (hay Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm; 2. Mật đắng; 3. Máu cuồng và hồn điên-1938) Xuân như ý Thượng Thanh Khí (thơ) Cẩm Châu Duyên Duyên kỳ ngộ (kịch thơ-1939) Quần tiên hội (kịch thơ, viết dở dang-1940) Chơi Giữa Mùa Trăng (tập thơ-văn xuôi) Ngoài ra còn có một số bài phóng sự, tạp văn, văn tế..

Vũ Bằng
Vũ Bằng
Author · 4 books
Vũ Bằng (1913–1984), tên thật là Vũ Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng. Ông là người có sở trường về viết truyện ngắn, tùy bút, bút kí,... Ngoài bút hiệu Vũ Bằng, ông còn ký với các bút hiệu khác: Tiêu Liêu, Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hoàng Thị Trâm...
Ngo Tat To
Ngo Tat To
Author · 3 books

Ngô Tất Tố (1894-1954), người làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954. Ngô Tất được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam trước 1945 với các tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình.Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) từng khen ngợi Tắt đèn là "một tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy". Phong Lê, trên Tạp chí Sông Hương tháng 12 năm 2003, gọi những tác phẩm viết về nông thôn của Ngô Tất Tố là "một nhận thức toàn diện và sâu sắc, đầy trăn trở và xúc động về cảnh ngộ và số phận người nông dân Việt Nam" đạt đến "sự xúc động sâu xa và bền vững"Ấn tượng bao trùm về Tắt đèn là một bức tranh đời sống sắc sảo, góc cạnh và chi tiết trên tất cả mọi chân dung và đối thoại, không trừ ai, trong số mấy chục nhân vật có tên hoặc không tên, xoay quanh một hình tượng trung tâm là chị Dậu. Nhịp điệu của Tắt đèn là một hơi văn mạnh mẽ và rắn rỏi từ đầu đến cuối.Từ một góc nhìn khác, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, trong bài Ngô Tất Tố và một cách thích ứng trước thời cuộc trích từ cuốn Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2005), viết Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết "rất xúc động" khiến người đọc có thể "nhiều phen ứa nước mắt". Còn thiên phóng sự Việc làng được coi là một trong những tác phẩm báo chí toàn diện và chi tiết nhất về bộ mặt nông thôn Việt Nam trước năm 1945. Phong Lê, trong bài đã dẫn, cho rằng Việc làng phản ánh "tận chiều sâu những cội rễ của cả hai mặt phong tục và hủ tục, nó tồn tại dai dẳng đến thế, không chỉ đến thời Ngô Tất Tố viết Việc làng, mà cả cho đến hôm nay". Ngô Tất Tố là một nhà nho lão thành, thấm sâu nền văn hóa cũ, từng mang lều chõng đi thi, từng đỗ đạt. Trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng (1913-1984), có thời gian cùng làm việc với Ngô Tất Tố, từng kể lại là ở ông có chất thầy đồ cổ lỗ đến như thế nào. Tuy nhiên, Ngô Tất Tố không hoàn toàn là một người lạc hậu, nhất là trong những tác phẩm của ông. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận xét: "Trong khi về mặt tính cách, người ta thấy Ngô Tất Tố gắn liền với lớp người trưởng thành từ đầu thế kỷ (thế kỷ 20) (những Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Duy Tốn...) thì tác phẩm của ông lại thường được xếp cạnh tác phẩm Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng nghĩa là thuộc về một giai đoạn chín đẹp của thế kỷ này, những năm 30 huy hoàng". Tính chất giao thời trong ngòi bút của Ngô Tất Tố thể hiện rõ nét trong tác phẩm Lều chõng. Tiểu thuyết này được đăng tải dần trên báo Thời vụ từ năm 1939 và sau đó được xuất bản thành sách năm 1941. Lều chõng ra đời trong bối cảnh đang dấy lên phong trào phục cổ, kêu gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ, những giá trị tinh thần

Thach Lam
Thach Lam
Author · 8 books
Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành Nguyễn Tường Lân) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng thuộc nhóm Tự Lực văn đoàn. Ông cũng là em ruột của hai nhà văn nổi tiếng trong nhóm Tự Lực văn đoàn là Nhất Linh và Hoàng Đạo. Ngoài bút danh Thạch Lam, ông còn có các bút danh là Việt Sinh, Thiện Sỹ.
Đinh Hùng
Đinh Hùng
Author · 1 books

ĐINH HÙNG sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại làng Trung Phụng, ngoại vi thành Hà Nội (chánh quán làng Phượng Dực, tỉnh Hà Đông), Bắc Việt. Thuở nhỏ, học trường Sinh Từ. Đậu tú tài khi học xong trường Bưởi, Hà Nội. Tham gia sinh hoạt văn nghệ từ rất sớm, từ trước 1945, nhưng chỉ chính thức sống bằng nghề văn báo ít lâu trước khi di cư vô Nam (1952-54). Tại Sài Gòn, ông viết truyện dài dã sử (ký Hoài Điệp, Thứ Lang), làm thơ trào phúng (ký Thần Đăng), vẽ tranh, soạn kịch thơ và phụ trách mục thi ca Tao Đàn trên các luồng sóng phát thanh. Năm 1962, ông được trao tặng giải thưởng Văn chương Toàn quốc (về Thơ). Ông từ trần ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại Bệnh viện Bình-dân Sài Gòn, sau một cơn đau ung thư bao tử, để lại một vợ ba con cùng một sự nghiệp còn dang dở. Tác phẩm đã ấn hành: Mê hồn ca (thơ, Tiếng Đông phương, Hà Nội, 1954);Đường vào tình sử (thơ, Nam Chi Tùng thư, Sài Gòn, 1961); Ngày đó có em(thuật ký, Giao điểm, 1967), Đốt lò hương cũ (hồi ký, Lửa Thiêng, 1971) cùng vài cuốn truyện dài dã sử do Nguyễn Đình Vượng xuất bản khoảng 1959-60. Đinh Hùng tạo được cho riêng ông một thi giới rất lạ, tựa như một con suối chảy từ trữ tình đến tượng trưng sang siêu thực, mang theo dòng những hình ảnh giàu có, một ngôn ngữ cá biệt và một tâm hồn lạ lùng của miền núi rừng hoang vu, bí ẩn, nguyên sơ…

Tam Lang
Tam Lang
Author · 1 books
Tam Lang (1900 - 1986) tên thật là Vũ Đình Chí sinh tại Hà Nội nhưng nguyên quán ở vùng Kẻ Sặt, tỉnh Hải Dương. Tam Lang là một trong những nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam; đặc biệt với tác phẩm mẫu mực Tôi kéo xe, ông đã mở ra cả một thể loại mới trong văn chương: phóng sự. Ông cùng với Vũ Trọng Phụng và Vũ Bằng là ba chàng họ Vũ nổi danh làng báo thời tiền chiến.
Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân
Author · 4 books
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt.
Vu Trong Phung
Vu Trong Phung
Author · 10 books

Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào năm 1930, ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm Số đỏ và Giông Tố đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của Việt Nam. Nổi tiếng với giọng văn trào phúng châm biếm xã hội của mình, một số người đã so sánh ông như Balzac của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng vì phong cách "tả chân" và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì "tội tổn thương phong hóa" (outrage aux bonnes moeurs). Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm in, cấm đọc vì là "tác phẩm suy đồi" tại miền Bắc Việt Nam từ 1954 và cả nước từ ngày 30/4/1975 cho đến tận cuối những năm 1980 mới được chính quyền cho lưu hành. Tác phẩm: Tiểu thuyết: Dứt tình (1934) Giông tố (1936), khi đăng trên Hà Nội báo có tên Thị Mịch. Vỡ đê (1936) - Báo Tương Lai Số đỏ (1936) - Hà Nội báo Làm đĩ (1936) - Tạp chí Sông Hương Lấy nhau vì tình (1937) Trúng số độc đắc (1938) Quý phái (1937, đăng dang dở trên Đông Dương tạp chí - bộ mới) Người tù được tha (Di cảo) Và còn rất nhiều tác phẩm kịch, dịch thuật, phóng sự và truyện ngắn.

Nguyên Hồng
Nguyên Hồng
Author · 2 books

Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, mồ côi cha, từ nhỏ theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống trong các xóm chợ nghèo. Nguyên Hồng ham đọc sách từ nhỏ. ông thường dành tiền thuê sách để đọc và dường như đọc hết những quyển sách mình thích ở cửa hàng cho thuê sách tại Nam Định. Loại sách Nguyên Hồng thích thuở nhỏ là truyện lịch sử Trung Hoa, trong đó những nhân vật có khí phách ngang tàng, trung dũng, những hảo hán chiếm cảm tình của ông nhiều nhất. Nguyên Hồng bắt đầu viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn "Linh Hồn" đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết "Bỉ Vỏ". Tiểu thuyết "Bỉ vỏ" là bức tranh xã hội sinh động về thân phận những "con người nhỏ bé dưới đáy" như Tám Bính, Năm Sài Gòn... Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) ở Hải Phòng. Tháng 9 năm 1939, ông bị mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) năm 1940. Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng... Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông là "Núi rừng Yên Thế". Nguyên Hồng qua đời ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên (Bắc Giang). Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Các tác phẩm chọn lọc Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938 ) Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941); Những ngày thơ ấu (hồi ký, 1940); Qua những màn tối (truyện, 1942); Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942), Quán nải (tiểu thuyết, 1943); Đàn chim non (tiểu thuyết, 1943); Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1943); Hai dòng sữa (truyện ngắn, 1943 ); Vực thẳm (truyện vừa, 1944 ); Miếng bánh (truyện ngắn, 1945); Ngọn lửa (truyện vừa, 1945); Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, 1946- 1961); Đất nước yêu dấu (ký, 1949); Đêm giải phóng (truyện vừa, 1951); Giữ thóc (truyện vừa, 1955); Giọt máu (truyện ngắn, 1956); Trời xanh (thơ, 1960) Sóng gầm (tiểu thuyết, 196l); Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1963); Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, 1963); Bước đường viết văn của tôi (hồi ký, 197l); Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi, 1972), Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, 1973); Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973); Sông núi quê hương (thơ, 1973); Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, 1976); Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978); Thù nhà nợ nước. (tập I, trong bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế, 1981); Núi rừng Yên Thế (tiểu thuyết, tập II, 1993 ); Tuyển tập Nguyên Hồng (3 tập Tập I: 1983, Tập II: 1984, Tập III: 1985).

Khai Hung
Khai Hung
Author · 5 books

Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, sinh năm 1896, tại Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông là con trai của tuần phủ Trần Thế Mỹ. Khái Hưng được học chữ nho từ thuở nhỏ, sau này theo Tây học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đậu tú tài Pháp, ban triết, Khái Hưng dậy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh (bởi vậy mới có bút danh Nhị Linh). Khái Hưng kết hôn với bà Lê Thị Hoà (con tổng đốc Lê Văn Đính) bút hiệu Nhã Khanh. Gia đình Khái Hưng không có con, Nhất Linh cho con trai là Nguyễn Tường Triệu làm con nuôi từ nhỏ. Khái Hưng viết cho Phong hoá, từ khi tờ báo còn do Phạm Hữu Ninh hiệu trưởng Thăng Long chủ trương. Năm 1932, Nhất Linh mua lại Phong hoá. 1933, thành lập Tự Lực văn đoàn. 1933, xuất bản Hồn bướm mơ tiên. 1936, Phong Hoá bị đóng cửa. Ngày Nay, đã ra từ trước, tiếp tục. Giống như các tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề cao tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến, ít nhiều mang tính cải cách xã hội. Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch, thường chỉ một hồi, nhưng ít được công diễn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn được nhiều thanh niên thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cũng là một dịch giả. Trong thời gian xảy ra chiến tranh thế giới thứ hai, giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị. Do tham gia Đại Việt dân chính Đảng thân Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau Cách mạng tháng Tám, Khái Hưng có viết một loạt bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn trên các báo của Việt Nam Quốc dân Đảng. Khái Hưng mất năm 1947. Có thông tin cho rằng Khái Hưng bị Đảng cộng sản thủ tiêu tại bến đò Cựa Gà, Xuân Trường, Nam Định.

Nguyễn Bính
Nguyễn Bính
Author · 4 books

Nguyễn Bính sinh ngày 13-2-1918, tức mồng ba Tết năm Mậu Ngọ với tên thật là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Cha Nguyễn Bính tên là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, còn mẹ ông là bà Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá giả. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính. Bà Miện bị rắn độc cắn rồi mất năm 1918, lúc đó bà mới 24 tuổi. Để lại cho ông Bình ba đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới sáu tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ ba tuổi và Nguyễn Bính mới sinh được ba tháng. Đúng như câu thơ ông viết: Còn tôi sống sót là may Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ Mấy năm sau ông Bình cưới bà Phạm Thị Duyên làm vợ kế (bà sinh được bốn người con, hai trai hai gái). Bà cả Giần là chị ruột của mẹ Nguyễn Bính, nhà bà lại giàu có, nên bà cùng ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của Nguyễn Bính và là cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn, đón ba anh em Nguyễn Bính về nuôi cho ăn học. Nguyễn Bính làm thơ từ thuở bé, được cậu Khiêm khen hay nên được cưng Năm 13 tuổi Nguyễn Bính được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng với sáng tác: ...Anh đố em này: Làng ta chưa vợ mấy người ? Chưa chồng mấy ả, em thời biết không Đố ai đi khắp tây đông, Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây? Làm sao như rượu mới say, Như giăng mới mọc, như cây mới trồng ? Làm sao như vợ như chồng ? Làm sao cho thỏa má hồng răng đen Làm sao cho tỏ hơi đèn ? Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ? Làm sao ? anh khen em tài ? Làm sao ? em đáp một lời làm sao... ? Trúc Đường thi đỗ thành trung (đíp-lôm) vào loại giỏi ở Hà Nội, rồi dạy học trong một trường tư thục ở Hà Đông, Trúc Đường bắt đầu viết văn và làm thơ. Ông đón Nguyễn Bính lên và truyền đạt cho Nguyễn Bính văn học Pháp. Cuộc đời của Nguyễn Bính gắn bó Với Trúc Đường cả về văn chương và đời sống. Tác phẩm nổi bật: Chân quê, Lỡ bước sang ngang, Những bóng người trên sân ga, Tương tư, Viếng hồn trinh nữ, Cô hái mơ, Cô lái đò, Tiểu đoàn 307, Đêm sao sáng

548 Market St PMB 65688, San Francisco California 94104-5401 USA
© 2025 Paratext Inc. All rights reserved